Không ai nhớ cái máy bơm đó có từ bao giờ. Nó đặt ở góc rào sau nhà kho cũ, chỗ đất lúc nào cũng ẩm ẩm như mới khóc xong. Bụi tre rụng đầy, dây mơ leo qua, che gần hết.
Hồi nhỏ, tụi con nít trong xóm hay gọi đó là máy bơm của ông Đoàn, vì chỉ có ông hay ra đó bơm nước. Nhưng kỳ lắm, ông Đoàn lại chọn đúng những ngày mưa.
Trời đang trút nước, ao đầy, lu tràn, mấy cái thau trong nhà còn đổ không kịp, vậy mà ổng vẫn lầm lũi đạp máy bơm kẽo kẹt. Nước từ đâu hút ra, chảy thành dòng nhỏ, róc rách bò qua mảnh sân gạch loang loáng nước mưa.
Ai đi ngang cũng thắc mắc. Có người chọc, “ổng chắc bơm buồn quá ra cho loãng bớt.”
Có đứa nhỏ can đảm hỏi, ổng chỉ cười, răng vàng xỉn như chuối chín ép lâu.
“Tao bơm nước không phải để lấy nước.”
Người ta chẳng hiểu. Rồi thôi, không hỏi nữa.
Ông Đoàn mất sau một cơn ho, không lâu sau đó. Máy bơm vẫn còn nằm đó. Không ai đụng. Bụi mọc lên, cỏ trùm kín. Trẻ con không dám chơi gần, kêu chỗ đó “kỳ kỳ”.
Nhiều năm sau, có người trong xóm làm lại vườn, mới lôi ra cái máy cũ. Lạ là bên trong có một quyển sổ mỏng bị bọc kỹ trong ni lông.
Toàn những dòng chữ nguệch ngoạc, không ngày tháng. Chữ ông Đoàn, ai cũng nhận ra.
“Ngày mưa thứ mười ba. Tao nhớ bà.” “Nước nhiều quá rồi, mà lòng thì khô. Bơm chút cho đỡ cấn.” “Hồi xưa, mưa là lúc mình hay ngồi co chân, chừa một cái lu cho nước tràn. Bà hay cười, nói tao keo.”
Không ai đọc tiếp được nữa.
Người ta đem cái máy bơm đi bán sắt vụn. Cái sân giờ trồng dưa leo. Nhưng thỉnh thoảng, mưa tới, tiếng nước lóc bóc từ mái tôn rớt xuống nền gạch nghe như tiếng ai đang đạp máy âm thầm ngoài rào.
Trời thì mưa, nước thì đầy
Mà ông vẫn đạp, lưng gầy gò lưng
Nước không bơm để trữ, để dùng
Mà bơm cho nỗi nhớ đừng dềnh lên quá cổ.